CÁC VẤN ĐỀ AN TOÀN KHI SỬ DỤNG MEN SỐNG

19/12/2022 - Manager Website

Mặc dù men vi sinh chứa các chủng lợi khuẩn còn sống được sử dụng rộng rãi và có nhiều bằng chứng ủng hộ việc sử dụng bổ sung men vi sinh trong các điều kiện khác nhau, một số lo ngại đã được đặt ra về khả năng xảy ra các tác dụng phụ liên quan đến việc sử dụng các chủng vi khuẩn sống, đặc biệt là ở nhóm trẻ em và người lớn mắc các bệnh tiềm ẩn.

1. GÂY NHIỄM TRÙNG Ở NHỮNG NHÓM ĐỐI TƯỢNG NHẠY CẢM

Một trong những lo ngại chính về việc sử dụng men vi sinh sống là vi khuẩn sống có thể di chuyển từ ruột đến các mô và máu dẫn lưu cục bộ, do đó có thể gây ra nhiễm khuẩn huyết, đặc biệt ở những đối tượng suy giảm miễn dịch, bệnh nặng và ở trẻ em.

Một mối quan tâm quan trọng về sự an toàn của các sản phẩm men vi sinh là nguy cơ chuyển vị và nhiễm khuẩn huyết và nhiễm trùng huyết sau đó. Một số chủng có đặc tính bám dính tốt trên niêm mạc ruột, một cơ chế liên quan đến khả năng di chuyển vi khuẩn từ ruột sang máu và các mô khác cao hơn, đặc biệt ở những bệnh nhân bị rối loạn chức năng hàng rào biểu mô. 

Nguy cơ này đặc biệt đáng lo ngại ở trẻ sơ sinh, nhất là ở trẻ sơ sinh bị bệnh nặng và/hoặc cực kỳ non tháng với khả năng toàn vẹn của ruột bị tổn thương, như được mô tả trong các báo cáo ca bệnh, và các mô hình động vật trong đó sự hiện diện của tình trạng suy giảm miễn dịch ở trẻ sơ sinh có thể khiến chúng có nguy cơ đặc biệt cao bị nhiễm trùng huyết do men vi sinh. 

Tình trạng suy giảm miễn dịch ở trẻ sơ sinh có thể khiến chúng có nguy cơ đặc biệt cao bị nhiễm trùng huyết do men vi sinh
Tình trạng suy giảm miễn dịch ở trẻ sơ sinh có thể khiến chúng có nguy cơ đặc biệt cao bị nhiễm trùng huyết do men vi sinh

Mặc dù không có thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên nào báo cáo nhiễm trùng huyết do men vi sinh, nhưng vẫn có trường hợp báo cáo về các bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng như nhiễm trùng máu, viêm phổi, viêm màng não, viêm nội tâm mạc và áp xe ở những bệnh nhân được điều trị bằng các loại men vi sinh khác nhau, bao gồm LactobacillusBifidobacteriumBacillus và Streptococcus, đặc biệt là ở trẻ em và người lớn mắc bệnh tiềm ẩn.

Vì nhiễm khuẩn huyết do men vi sinh thường xảy ra ở các cơ sở chăm sóc đặc biệt, nên vệ sinh tay được khuyến nghị khi thao tác với ống thông tĩnh mạch trung tâm và xử lý các chế phẩm men vi sinh.

Về vấn đề này, tác dụng phụ phổ biến nhất liên quan đến men vi sinh là bệnh nấm máu ở những bệnh nhân được điều trị bằng các chế phẩm men (có chứa Saccharomyces cerevisiae / Saccharomyces cerevisiae boulardii ), đặc biệt ở những bệnh nhân bị bệnh nặng, mắc bệnh đường tiêu hóa toàn thân nghiêm trọng hoặc bị ức chế miễn dịch.

2. TRUYỀN GEN KHÁNG KHÁNG SINH

Những lo ngại khác về việc sử dụng men vi sinh sống là khả năng thu nhận/truyền gen kháng kháng sinh của các chủng men vi sinh thông qua chuyển gen ngang trong đường tiêu hóa của con người và các hoạt động trao đổi chất có hại và khả năng miễn dịch quá mức ở những người nhạy cảm. Việc đánh giá nghiêm ngặt các chủng lợi khuẩn trước khi tiếp thị sản phẩm nên được thực hiện, bao gồm cả đặc tính của chủng gen, để đảm bảo, trong số những thứ khác, không có các yếu tố quyết định kháng thuốc. 

Một nghiên cứu gần đây đã chỉ ra khả năng của Lactobacillus sinh ra từ thực phẩm trong việc khuếch tán các đặc điểm kháng kháng sinh của chúng đối với mầm bệnh thực phẩm trong điều kiện in vitro và in vivo, do đó gây lo ngại về việc sử dụng chúng làm chế phẩm sinh học hoặc thực phẩm bổ sung.

3. ẢNH HƯỞNG ĐÊN SỰ XÂM NHẬP BÌNH THƯỜNG CỦA HỆ VI SINH VẬT ĐƯỜNG RUỘT Ở TRẺ SƠ SINH

Trong trường hợp trẻ sơ sinh, người ta cũng lo ngại rằng các chủng lợi khuẩn sống có thể hình thành một hệ sinh thái lâu dài có thể ngăn chặn sự xâm nhập bình thường của các hệ vi sinh vật khác hoặc với hệ vi sinh vật lõi bình thường trong đường tiêu hóa, dẫn đến sự thay đổi sau đó đối với sự phát triển hệ thống miễn dịch bình thường. 

Về vấn đề này, sự kết hợp của các chủng lợi khuẩn thay vì một chủng duy nhất đã được đề xuất ở trẻ sơ sinh, có tính đến sự phức tạp của hệ vi sinh vật đường ruột và cơ chế bệnh sinh của một số bệnh ở trẻ non tháng, chẳng hạn như viêm ruột hoại tử (NEC). Việc sử dụng men vi sinh bị tiêu diệt nhiệt (S. thermophilus) trong sữa công thức đường ruột ở trẻ sinh non cũng đã được đề xuất để tránh can thiệp vào sự xâm lấn của ruột.

Kết luận:

Mặc dù các biến cố bất lợi liên quan đến việc sử dụng men vi sinh sống chủ yếu được mô tả trong các báo cáo trường hợp, nhưng trong thiết kế của các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, các thông số an toàn chính thường thiếu, như đã kết luận trong một đánh giá gần đây về 384 thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng đánh giá men vi sinh, prebiotic hoặc cộng sinh, khuyến nghị rằng việc đánh giá cân bằng lợi ích-rủi ro phải luôn được đưa vào.

Sự cân bằng lợi ích-nguy cơ này đặc biệt quan trọng ở những bệnh nhân dễ bị tổn thương, như đã được kết luận trong một đánh giá có hệ thống về các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng trong đó men vi sinh được sử dụng để phòng ngừa bệnh tiêu chảy do Clostridium difficile (CDAD) ở người lớn và trẻ em. 

Việc sử dụng men vi sinh trong thời gian ngắn dường như an toàn và hiệu quả khi kết hợp với kháng sinh ở những bệnh nhân không bị suy giảm miễn dịch hoặc suy nhược nghiêm trọng, do đó kết luận rằng những bệnh nhân dễ bị tổn thương nên được thông báo về những lợi ích và rủi ro tiềm tàng của men vi sinh.

Tài liệu tham khảo

[1] N. Piqué, M. Berlanga, và D. Miñana-Galbis, “Health Benefits of Heat-Killed (Tyndallized) Probiotics: An Overview”, Int J Mol Sci, vol 20, số p.h 10, tr 2534, tháng 5 2019, doi: 10.3390/ijms20102534.

Tìm hiểu bài viết liên quan: https://inrd.vn/

Fanpage: https://www.facebook.com/inrd2022

Tin mới

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

.
.
.
.