Tác dụng chống ung thư của Beta Glucans

02/01/2024 - Manager Website

Glucans là một phần của nhóm các phân tử tự nhiên có hoạt tính sinh học và đang dần thu hút được sự chú ý mạnh mẽ không chỉ như một chất bổ sung thực phẩm quan trọng mà còn là một chất kích thích miễn dịch và thuốc tiềm năng. Beta-glucan đã được nghiên cứu rộng rãi ở cả động vật và người và có tiềm năng nổi bật được công nhận là tăng khả năng miễn dịch và chống ung thư.

Khả năng chống ung thư của Beta Glucans

Một điều rõ ràng là chính β-glucans không có tác dụng gây độc tế bào trực tiếp. Các nghiên cứu liên quan đến tác dụng gây độc tế bào của β-glucan là từ các nghiên cứu sử dụng chiết xuất thô của các loại thảo mộc có chứa β-glucan hoặc sử dụng bạch cầu đơn nhân mẫn cảm lần đầu β-glucan. 

Công thức hóa học của Beta Glucans
Khả năng chống ung thư của Beta Glucans

Đối với các loại thảo mộc có chứa β-glucan như Ganoderma lucidum (Linh chi), có các thành phần hoạt tính khác như axit ganoderic từ sợi nấm và triterpenes từ bào tử, tất cả đã được chứng minh là có tác dụng chống ung thư trực tiếp một cách độc lập. Các nghiên cứu không tìm thấy bất kỳ tác dụng gây độc tế bào trực tiếp nào của β-glucan trên nhóm các dòng tế bào ung thư phổ biến được thử nghiệm bao gồm ung thư biểu mô, sarcoma và u nguyên bào. β-glucans cũng không kích hoạt bất kỳ con đường chết theo chương trình nào và không có ảnh hưởng trực tiếp đến telomerase và chiều dài telomeric của tế bào ung thư (dữ liệu chưa được công bố). 

Ngược lại, nó kích thích sự tăng sinh của các tế bào bạch cầu dòng mono trong ống nghiệm và có thể tạo điều kiện thuận lợi cho sự trưởng thành của các tế bào đuôi gai có nguồn gốc từ các tế bào bạch cầu. Do đó, việc sử dụng β-glucans trên bệnh nhân bạch cầu có lợi hay không vẫn còn gây tranh cãi và phải được xem xét thận trọng.

Trong tài liệu tiếng Anh, chưa có thử nghiệm lâm sàng nào đánh giá trực tiếp tác dụng chống ung thư của β-glucans tinh khiết ở bệnh nhân ung thư. Hầu hết các nghiên cứu đều đánh giá hồ sơ độc tính hoặc những thay đổi miễn dịch cơ bản của bệnh nhân ung thư mà không đề cập đến sự thay đổi của tình trạng ung thư. Ngoài ra, hầu hết các nghiên cứu liên quan đã sử dụng chiết xuất thảo dược thô hoặc một phần chiết xuất thay vì β-glucans tinh khiết. Do đó, rất khó để xác định liệu các tác động thực tế có liên quan đến β-glucans hoặc các hóa chất gây nhiễu khác được tìm thấy trong hỗn hợp hay không.

Trong một thử nghiệm lâm sàng tiến cứu về tác dụng miễn dịch ngắn hạn của β-glucan đường uống ở bệnh nhân ung thư vú tiến triển, 23 bệnh nhân nữ bị ung thư vú di căn được so sánh với 16 phụ nữ khỏe mạnh uống β-1,3;1,6-glucan hàng ngày. Các mẫu máu được lấy vào ngày 0 và 15. Người ta thấy rằng mặc dù số lượng tế bào bạch cầu ban đầu tương đối thấp, nhưng β-glucan đường uống có thể kích thích sự tăng sinh và kích hoạt các bạch cầu đơn nhân trong máu ngoại vi ở bệnh nhân ung thư vú giai đoạn cuối. Liệu điều đó có thể được chuyển thành lợi ích lâm sàng hay không vẫn đang được nghiên cứu.

Thử nghiệm lâm sàng về tác dụng chống ung thư của các sản phẩm Beta Glucans tự nhiên

Nhiều loại nấm ăn được, đặc biệt là ở các loài nấm hương tạo ra các chất sinh miễn dịch có khả năng chống ung thư. β-glucans là một trong những thành phần hoạt tính phổ biến. Trong các thử nghiệm lâm sàng hạn chế về bệnh ung thư ở người, hầu hết đều được dung nạp tốt. Trong số đó, lentinan có nguồn gốc từ Lentinus edodes là một dạng β-glucans. Vì nó có khả năng hấp thụ qua ruột kém nên các đường tiêm tĩnh mạch (trong màng phổi hoặc tiêm tĩnh mạch) đã được áp dụng trong các thử nghiệm lâm sàng cho thấy một số lợi ích lâm sàng khi được sử dụng như một chất bổ trợ cho hóa trị.

Thử nghiệm lâm sàng về tác dụng chống ung thư của các sản phẩm Beta Glucans tự nhiên

Schizophyllan (SPG) hoặc sizofiran là một loại β-glucan khác có nguồn gốc từ Schizophyllan commune. Cấu trúc β-glucans phức hợp xoắn ba vòng của nó ngăn không cho nó hấp thụ đầy đủ qua đường uống, vì vậy đường tiêm trong khối u hoặc tiêm vào các hạch bạch huyết ở khu vực xung quanh đã được áp dụng. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, SPG kết hợp với hóa trị liệu thông thường đã cải thiện tỷ lệ sống lâu dài của bệnh nhân ung thư buồng trứng. Nhưng liệu thời gian sống sót kéo dài sau đó có thể dẫn đến tỷ lệ chữa khỏi tốt hơn hay không vẫn chưa được trả lời.

Maitake D-Fraction chiết xuất từ ​​Grifola frondosa (nấm Maitake) được phát hiện là làm giảm kích thước khối u phổi, gan và vú ở >60% bệnh nhân khi được kết hợp với hóa trị liệu so với chỉ hóa trị liệu trong một nghiên cứu đối chứng. Tác dụng ít rõ ràng hơn đối với bệnh nhân ung thư bạch cầu, dạ dày và ung thư não. Nhưng tính hợp lệ của nghiên cứu lâm sàng sau đó đã bị nghi ngờ bởi một nhà quan sát độc lập khác. 

Hai proteoglycan từ Coriolus versicolor(Yun Zhi) – PSK (Polysacarit-K) và PSP (Polysaccharopeptide) – nằm trong số các loại thảo mộc có chứa β-glucan được nghiên cứu rộng rãi nhất với thông tin thử nghiệm lâm sàng. Tuy nhiên, cả PSK và PSP đều là các polysacarit gắn với protein, vì vậy hoạt động của chúng không cần thiết tương đương trực tiếp với β-glucans tinh khiết. Trong một loạt thử nghiệm ở Nhật Bản và Trung Quốc, PSK và PSP được dung nạp tốt mà không có tác dụng phụ đáng kể. Chúng cũng kéo dài thời gian sống của một số bệnh nhân ung thư biểu mô và bệnh bạch cầu không lympho.

Ganoderma polysaccharides là β-glucans có nguồn gốc từ Ganoderma lucidum (Lingzhi, Reishi). Trong khi β-glucan là thành phần chính của sợi nấm linh chi, nó chỉ là một thành phần phụ trong bào tử linh chi. Thành phần hoạt chất chính trong chiết xuất bào tử nấm linh chi là triterpenoid có bản chất gây độc tế bào. Trong một nghiên cứu nhãn mở trên bệnh nhân ung thư phổi di căn, 36 bệnh nhân được điều trị bằng polysaccharide nấm linh chi 5,4 g/ngày trong 12 tuần với biến số và kết quả trên hồ sơ cytokine không hợp lý. 

Một nghiên cứu khác trên 47 bệnh nhân ung thư đại trực tràng di căn sử dụng cùng liều lượng và thời gian một lần nữa cho thấy các kiểu phản ứng miễn dịch thay đổi tương tự. Những kết quả này làm nổi bật sự không nhất quán của các kết quả lâm sàng trong việc sử dụng chiết xuất thảo dược tăng cường miễn dịch trên lâm sàng, điều này có thể một phần là do tạp chất của các sản phẩm được sử dụng.

Tài liệu tham khảo

[1] G. C.-F. Chan, W. K. Chan, và D. M.-Y. Sze, “The effects of β-glucan on human immune and cancer cells”, J Hematol Oncol, vol 2, tr 25, tháng 6 2009, doi: 10.1186/1756-8722-2-25.

[2] G. Demir, H. O. Klein, N. Mandel-Molinas, và N. Tuzuner, “Beta glucan induces proliferation and activation of monocytes in peripheral blood of patients with advanced breast cancer”, Int Immunopharmacol, vol 7, số p.h 1, tr 113–116, tháng 1 2007, doi: 10.1016/j.intimp.2006.08.011.

[3] P. M. Kidd, “The use of mushroom glucans and proteoglycans in cancer treatment”, Altern Med Rev, vol 5, số p.h 1, tr 4–27, tháng 2 2000.

[4] N. Kodama, K. Komuta, và H. Nanba, “Can maitake MD-fraction aid cancer patients?”, Altern Med Rev, vol 7, số p.h 3, tr 236–239, tháng 6 2002.

[5] K. Hayakawa và c.s., “Effect of Krestin as adjuvant treatment following radical radiotherapy in non-small cell lung cancer patients”, Cancer Detect Prev, vol 21, số p.h 1, tr 71–77, 1997.

[6] J. Sakamoto và H. Nakazato, “[Evaluation of adjuvant immunochemotherapy in advanced gastric cancer]”, Gan To Kagaku Ryoho, vol 20, số p.h 16, tr 2525–2530, tháng 12 1993.

[7] R. Ohno và c.s., “A randomized trial of chemoimmunotherapy of acute nonlymphocytic leukemia in adults using a protein-bound polysaccharide preparation”, Cancer Immunol Immunother, vol 18, số p.h 3, tr 149–154, 1984, doi: 10.1007/BF00205503.

[8] Y. Nishiwaki và c.s., “[A randomized controlled study of PSK combined immuno-chemotherapy for adenocarcinoma of the lung. The Advanced Lung Cancer Immuno-chemotherapy Study Group]”, Gan To Kagaku Ryoho, vol 17, số p.h 1, tr 131–136, tháng 1 1990.

[9] P. Go và C. H. Chung, “Adjuvant PSK immunotherapy in patients with carcinoma of the nasopharynx”, J Int Med Res, vol 17, số p.h 2, tr 141–149, 1989, doi: 10.1177/030006058901700205.

[10] X. Chen và c.s., “Monitoring of immune responses to a herbal immuno-modulator in patients with advanced colorectal cancer”, Int Immunopharmacol, vol 6, số p.h 3, tr 499–508, tháng 3 2006, doi: 10.1016/j.intimp.2005.08.026.

Website: https://inrd.vn/

Fanpage: https://www.facebook.com/inrd2022

Tin mới

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

.
.
.
.