VITAMIN VÀ SA SÚT TRÍ TUỆ

18/12/2022 - Manager Website

Vitamin là những chất vi lượng mà cơ thể không thể tự tổng hợp được. Vitamin rất cần thiết đối với nhiều chức phận quan trọng của cơ thể, tham gia xúc tác nhiều quá trình trao đổi chất của cơ thể. Thiếu vitamin ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển, sức khỏe và gây nhiều bệnh đặc hiệu.

1. ĐẠI CƯƠNG

Vitamin cần thiết cho cơ thể con người và chia làm 2 nhóm theo tính tan:

  • Vitamin tan trong chất béo điển hình là A,D,E,K
  • Vitamin tan trong nước là vitamin C, B1, B2, PP, B6, B12, acid folic,…

Đáp ứng đủ nhu cầu vitamin của cơ thể giúp duy trì chức năng nhận thức ở những người khỏe mạnh và hỗ trợ trong điều trị sa sút trí tuệ. Sa sút trí tuệ là một hội chứng suy giảm trí nhớ, suy nghĩ, hành vi và khả năng thực hiện các hoạt động hàng ngày.

Các nghiên cứu cho thấy chế độ ăn uống và dinh dưỡng được coi là một trong những yếu tố nguy cơ tiềm ẩn của sa sút trí tuê có thể điều chỉnh được, trong đó bổ sung vitamin có tiềm năng trong việc ngăn ngừa hoặc làm chậm sự suy giảm nhận thức.

2. VITAMIN NHÓM B

Folate vitamin đóng vai trò quan trọng trong sự trưởng thành của hồng cầu. Gần đây, mức độ thiếu folate, không đủ nghiêm trọng để gây thiếu máu, đã được phát hiện có liên quan đến nồng độ axit amin homocysteine ​​trong máu cao. Nồng độ homocysteine ​​trong máu cao có liên quan đến nguy cơ mắc bệnh động mạch, sa sút trí tuệ và bệnh Alzheimer.

Do đó, người ta quan tâm đến việc liệu thực phẩm bổ sung axit folic (có cấu trúc hóa học tương tự folate tự nhiên) có thể cải thiện chức năng nhận thức của những người có nguy cơ suy giảm nhận thức liên quan đến lão hóa hoặc sa sút trí tuệ, bằng cách ảnh hưởng đến chuyển hóa homocysteine ​​hoặc thông qua các cơ chế khác.

Một nghiên cứu tổng hợp (2022) phân tích 95 nghiên cứu với 46175 người tham gia cho thấy bổ sung vitamin B làm chậm quá trình nhận thức ở những người không sa sút trí tuệ so với nhóm giả dược (3431 người tham gia; MD, 0.15, 95%CI 0.04 đến 0.25). Trong số dân số không bị sa sút trí tuệ từ 50 tuổi trở lên, nguy cơ mất trí nhớ do sự cố giảm đáng kể ở những người có lượng folate cao hơn so với nhóm giả dược (13529 người tham gia; HR, 0.61, 95%CI 0.47 đến 0.78).

Phân tích tổng hợp này cho thấy rằng việc bổ sung vitamin B có liên quan đến việc làm chậm quá trình suy giảm nhận thức, đặc biệt là ở những quần thể được can thiệp sớm và can thiệp trong thời gian dài; nghiên cứu cũng chỉ ra rằng lượng folate trong chế độ ăn uống cao hơn, nhưng không phải vitamin B12 hoặc B6, có liên quan đến việc giảm nguy cơ mất trí nhớ do sự cố ở người già không sa sút trí tuệ.

Vitamin và sa sút trí tuệ
Vitamin và sa sút trí tuệ

3. VITAMIN D

Thiếu vitamin D có thể là một yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được của chứng sa sút trí tuệ vì vai trò của vitamin D đối với chức năng não ngày càng rõ ràng. Ở cấp độ phân tử, não có khả năng tổng hợp dạng hoạt động của vitamin D (1,25-dihydroxyvitamin D) trong nhiều loại tế bào và vùng với ưu thế ở vùng dưới đồi và các tế bào thần kinh lớn trong vùng phụ.

Về mặt chức năng, vitamin D góp phần bảo vệ thần kinh bằng cách điều chỉnh việc sản xuất yếu tố tăng trưởng thần kinh (NGF), neurotrophin 3, yếu tố dưỡng thần kinh có nguồn gốc từ tế bào thần kinh đệm (GDNF), nitric oxide synthase (iNOS) và choline acetyl transferase.

Các nghiên cứu cho thấy nồng độ 25 (OH) D huyết thanh cao hơn có liên quan đến nguy cơ sa sút trí tuệ và hội chứng Alzheimer thấp hơn. Tuy nhiên hiệu quả của bổ sung vitamin D được nhận thấy khác nhau về liều lượng bổ sung trong các nghiên cứu can thiệp.

Trong một nghiên cứu, liều lượng 2000 IU vitamin D3 cho thấy hiệu quả tốt hơn trong các bài kiểm tra trí nhớ và học tập và thị giác, hoạt động so với bổ sung 600 IU vitamin D hoặc bổ sung 4000 IU vitamin D. Ở nhóm can thiệp thứ ba (4000 IU vitamin D3) có thời gian phản ứng chậm hơn so với nhóm can thiệp đầu tiên (bổ sung 600 IU) ( p <0,01), do đó có thể thấy rằng liều cao hơn có thể ảnh hưởng tiêu cực đến thời gian phản ứng.

4. VITAMIN E

Vitamin E đã được đề xuất như một biện pháp can thiệp lâm sàng tiềm năng cho bệnh Alzheimer (AD) do các chức năng sinh học khác nhau của nó liên quan đến các quá trình thoái hóa thần kinh. Các đồng dạng tocopherol và tocotrienol của vitamin E có nhiều đặc tính bao gồm các đặc tính chống oxy hóa và chống viêm mạnh, ngoài ảnh hưởng đến chức năng miễn dịch, tín hiệu tế bào và giảm cholesterol. 

Một số vai trò trong số này đưa ra cơ sở lý thuyết để mang lại lợi ích cho việc điều trị bệnh lý liên quan đến AD. Nồng độ vitamin E trong tuần hoàn giảm đã được chứng minh ở những người bị AD. Tuy nhiên, các thử nghiệm ngẫu nhiên đã tìm thấy bằng chứng hạn chế và không nhất quán về việc bổ sung vitamin E như một biện pháp can thiệp lâm sàng hiệu quả. Do đó, mặc dù có một cơ sở lý luận chắc chắn về vai trò có lợi của vitamin E trong điều trị AD, nhưng bằng chứng vẫn chưa có kết luận.

Trong những năm qua, đã có một số đánh giá có hệ thống được công bố nhằm đánh giá hiệu quả của Vitamin E ở bệnh nhân sa sút trí tuệ. Năm 2000, một tổng quan hệ thống do Cochrane công bố không thể phát hiện bằng chứng về hiệu quả của vitamin E trong điều trị hoặc phòng ngừa bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer hoặc suy giảm nhận thức nhẹ. Sau đó, việc xem xét có hệ thống tương tự đã trải qua một số cập nhật. 

Phiên bản cuối cùng, từ năm 2017, vẫn không tìm thấy bằng chứng về hiệu quả của vitamin E đối với chức năng nhận thức, hoạt động sống hàng ngày hoặc mức độ nghiêm trọng của bệnh ở bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer hoặc suy giảm nhận thức nhẹ khi so sánh với giả dược.

Tài liệu tham khảo

[1] V. Gil Martínez, A. Avedillo Salas, và S. Santander Ballestín, “Vitamin Supplementation and Dementia: A Systematic Review”, Nutrients, vol 14, số p.h 5, tr 1033, tháng 2 2022, doi: 10.3390/nu14051033.

[2] Z. Wang, W. Zhu, Y. Xing, J. Jia, và Y. Tang, “B vitamins and prevention of cognitive decline and incident dementia: a systematic review and meta-analysis”, Nutr Rev, vol 80, số p.h 4, tr 931–949, tháng 3 2022, doi: 10.1093/nutrit/nuab057.

[3] D. Browne, B. McGuinness, J. V. Woodside, và G. J. McKay, “Vitamin E and Alzheimer’s disease: what do we know so far?”, Clin Interv Aging, vol 14, tr 1303–1317, 2019, doi: 10.2147/CIA.S186760.

[4] “Vitamin E for Alzheimer’s dementia and mild cognitive impairment – PMC”. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC6478142/ (truy cập 26 Tháng Chín 2022).

[5] A. Jayedi, A. Rashidy-Pour, và S. Shab-Bidar, “Vitamin D status and risk of dementia and Alzheimer’s disease: A meta-analysis of dose-response †”, Nutr Neurosci, vol 22, số p.h 11, tr 750–759, tháng 11 2019, doi: 10.1080/1028415X.2018.1436639.

Tìm hiểu bài viết liên quan: https://inrd.vn/

Fanpage: https://www.facebook.com/inrd2022

Tin mới

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

.
.
.
.